Cơ cấu nền kinh tế là một khái niệm chỉ sự phân bố và tổ chức của các yếu tố sản xuất và hoạt động kinh tế trong một quốc gia hoặc khu vực cụ thể. Cơ cấu kinh tế mô tả cách mà các ngành công nghiệp, lĩnh vực kinh tế, và các phần khác của nền kinh tế được xây dựng và hoạt động.
Cơ cấu nền kinh tế là một khái niệm chỉ sự phân bố và tổ chức của các yếu tố sản xuất và hoạt động kinh tế trong một quốc gia hoặc khu vực cụ thể. Cơ cấu kinh tế mô tả cách mà các ngành công nghiệp, lĩnh vực kinh tế, và các phần khác của nền kinh tế được xây dựng và hoạt động.
Tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay theo đó tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III/2023 ước tính tăng 5,33% so với cùng kỳ năm trước, mặc dù chỉ cao hơn tốc độ tăng của cùng kỳ các năm 2020 và 2021 trong giai đoạn 2011-2023 nhưng với xu hướng tích cực (quý I tăng 3,28%, quý II tăng 4,05%, quý III tăng 5,33%).
Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,72%, đóng góp 8,03% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,19%, đóng góp 38,63%; khu vực dịch vụ tăng 6,24%, đóng góp 53,34%.
Về sử dụng GDP quý III/2023, tiêu dùng cuối cùng tăng 3,79% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 40,56% vào tốc độ tăng chung của nền kinh tế; tích lũy tài sản tăng 6,61%, đóng góp 44,92%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 2,27%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 1,42%; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 14,52%.
Về cơ cấu nền kinh tế 9 tháng năm 2023, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,51%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,16%; khu vực dịch vụ chiếm 42,72%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,61% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2022 là 11,47%; 38,49%; 41,29%; 8,75%).
Về sử dụng GDP 9 tháng năm 2023, tiêu dùng cuối cùng tăng 3,03% so với cùng kỳ năm 2022, đóng góp 34,30% vào tốc độ tăng chung của nền kinh tế; tích lũy tài sản tăng 3,22%, đóng góp 19,35%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 5,79%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 8,19%; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 46,35%.
Xem chi tiết Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng năm 2023 của Tổng cục Thống kê: Tại đây
IMDA cho biết trong báo cáo: “Sự mở rộng của nền kinh tế kỹ thuật số xuất phát từ việc các doanh nghiệp áp dụng công nghệ kỹ thuật số ngày càng tăng, từ đó góp phần vào sự tăng trưởng mạnh mẽ của nhân lực công nghệ”. Tỷ lệ áp dụng công nghệ của các doanh nghiệp đã tăng từ 74% năm 2018 lên 94% vào năm 2022, theo khảo sát hàng năm của IMDA .
Sự tăng trưởng của nền kinh tế kỹ thuật số đã thúc đẩy nhu cầu về các chuyên gia công nghệ lành nghề tại Singapore. Mức lương trung bình hàng tháng trong lĩnh vực công nghệ, nơi sử dụng hơn 200.000 công nhân, là 7.376 đô la Singapore cho các chuyên gia địa phương, cao hơn mức lương trung bình chung là 4.500 đô la Singapore cho người dân.
Báo cáo cho biết: “Bất chấp tình trạng sa thải nhân viên trong lĩnh vực công nghệ gần đây, nhu cầu về việc làm công nghệ có thể vẫn ổn định khi quá trình số hóa nền kinh tế ngày càng sâu sắc”.
“Nhìn chung, nền kinh tế kỹ thuật số của Singapore đang phát triển mạnh mẽ và triển vọng dài hạn vẫn tích cực. Chính phủ Singapore tiếp tục cam kết phát triển nền kinh tế kỹ thuật số cạnh tranh và bồi dưỡng lực lượng lao động có kỹ năng công nghệ”, IMDA cho biết.
Phó Thủ tướng Lawrence Wong cho biết trong đề xuất ngân sách năm 2022 rằng chính phủ sẽ đầu tư 200 triệu đô la Singapore trong vài năm tới vào các dự án xây dựng năng lực kỹ thuật số trong doanh nghiệp và người lao động.
Ngay cả khi đất nước này tiếp tục chứng kiến sự tăng trưởng đáng kể trong nền kinh tế kỹ thuật số, báo cáo vẫn cảnh báo rằng không gian công nghệ là “một khu vực chuyển động nhanh” và “có nhiều đối thủ cạnh tranh, đe dọa vị thế trung tâm công nghệ của Singapore”.
Theo báo cáo, nền kinh tế kỹ thuật số Singapore vào GDP tăng lên 106 tỷ đô la Singapore (77,5 tỷ USD) năm 2022, từ mức 58 tỷ đô la Singapore năm 2017.
Báo cáo tính toán nền kinh tế số dựa trên hai thành phần. Đầu tiên là giá trị gia tăng hoặc đóng góp kinh tế của lĩnh vực thông tin và truyền thông (I&C), bao gồm các dịch vụ kỹ thuật số thường gắn liền với ngành công nghệ như viễn thông, máy tính và phần mềm. Thứ hai là giá trị gia tăng mà các ngành phi kỹ thuật số có được từ việc áp dụng các công nghệ và giải pháp kỹ thuật số.
Những thành tựu này là kết quả từ sự nỗ lực thu hút các công ty công nghệ toàn cầu và nhân tài từ nước ngoài, đồng thời nâng cao trình độ công nghệ trong dân số già của Singapore. Chính phủ cũng đã cam kết đầu tư 25 tỷ đô la Singapore vào nghiên cứu và phát triển cho đến năm 2025.
Giám đốc điều hành IMDA Lew Chuen Hong lưu ý rằng số hóa là “cực kỳ quan trọng” đối với đất nước vì nó mang lại khả năng tiếp cận người tiêu dùng và thị trường trên toàn thế giới. Lew nói: “Điều đó cho phép một quốc gia nhỏ như Singapore vượt qua hạn chế về mọi mặt ”.
Báo cáo cho biết, mặc dù không có tiêu chuẩn quốc tế nào được thống nhất về cách xác định và đo lường nền kinh tế kỹ thuật số, nhưng nền kinh tế này đóng góp 16,7% GDP của Singapore vào năm 2020, cao hơn một chút so với Estonia, Thụy Điển và Vương quốc Anh ở mức lần lượt là 16,6%, 15% và 16,1%, dựa trên phương pháp riêng và dữ liệu có sẵn.
Báo cáo đầu tiên đã xem xét giá trị gia tăng từ các khoản đầu tư vào vốn kỹ thuật số, bao gồm phần cứng như máy tính và thiết bị CNTT, cũng như phần mềm, trong lĩnh vực thông tin và truyền thông cũng như trên toàn bộ phần còn lại của nền kinh tế.
Dẫn đầu mức tăng trưởng là lĩnh vực thông tin và truyền thông, chiếm khoảng 1/3 nền kinh tế kỹ thuật số của đất nước, tương đương 5,4% tổng GDP. Số hóa trong phần còn lại của nền kinh tế, bao gồm tài chính và bảo hiểm, thương mại bán buôn và sản xuất, chiếm 11,9% GDP.
Cơ cấu nền kinh tế của Việt Nam có một sự tác động lớn đối với người lao động trong nhiều khía cạnh. Dưới đây là một số cách mà cơ cấu nền kinh tế Việt Nam tác động đến người lao động:
Tạo cơ hội việc làm: Cơ cấu nền kinh tế quyết định số lượng và loại hình công việc có sẵn cho người lao động. Ví dụ, sự tăng trưởng của ngành công nghiệp sản xuất có thể tạo ra nhiều cơ hội việc làm trong lĩnh vực này.
Lương và thu nhập: Cơ cấu kinh tế ảnh hưởng đến mức lương và thu nhập của người lao động. Các ngành kinh tế khác nhau có khả năng trả lương và thu nhập khác nhau, và sự tăng trưởng của các ngành này có thể tạo ra sự gia tăng thu nhập cho người lao động.
Chất lượng công việc: Cơ cấu kinh tế cũng có thể ảnh hưởng đến chất lượng công việc. Một cơ cấu kinh tế đa dạng có thể tạo ra nhiều loại công việc với nhiều cơ hội phát triển sự nghiệp và đào tạo, trong khi một cơ cấu kinh tế hạn chế có thể tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa người lao động cho các công việc giới hạn.
Đào tạo và phát triển: Cơ cấu kinh tế cũng đòi hỏi người lao động cần phải có kỹ năng và đào tạo phù hợp để làm việc trong các ngành kinh tế cụ thể. Người lao động cần điều chỉnh kỹ năng và kiến thức của họ để phản ánh sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế.
Bảo vệ xã hội: Cơ cấu kinh tế có thể ảnh hưởng đến các chương trình bảo hiểm xã hội, bảo vệ lao động và quyền lợi của người lao động. Chính phủ thường phải điều chỉnh các chính sách xã hội để đảm bảo rằng người lao động được bảo vệ và có điều kiện làm việc an toàn.
Chất lượng cuộc sống: Sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế cũng có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người lao động. Nếu nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, thì có khả năng gia tăng chất lượng cuộc sống thông qua tăng cơ hội sở hữu và tiêu dùng.
Tóm lại, cơ cấu nền kinh tế của Việt Nam có tác động sâu rộng đối với người lao động, từ cơ hội việc làm và thu nhập đến chất lượng cuộc sống và quyền lợi xã hội. Điều này đặc biệt quan trọng trong việc xác định sự phát triển và phát triển bền vững của nền kinh tế và xã hội của Việt Nam.
Lưu ý: Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo